Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Chuyện đi theo lối riêng nơi trạm gác tiền tiêu.

Hiện tượng du canh, du cư tự do diễn ra khá phổ biến, những hủ tục lạc hậu có mặt ở hầu hết các thôn, bản

Chuyện nơi trạm gác tiền tiêu

Và chính từ những câu chuyện ấy từng ngày, từng ngày thuyết phục được bà con nghe theo, làm theo những gì mà bộ đội hướng dẫn. Bởi, việc trồng cây thuốc phiện và sử dụng các sản phẩm từ nó bấy lâu đã "ăn sâu bám rễ" vào sinh hoạt hằng ngày của không ít người dân nơi đây. Bài và ảnh: NGUYỄN HỒNG SÁNG. Anh kể cho bà con nghe mọi lúc, mọi nơi, trên nương, dưới ruộng, hay trong mỗi bữa ăn.

Theo Đại úy Nguyễn Tiến Lợi, Phó cụm trưởng Cụm TSKT 16, Trạm trưởng Trạm 2 thì những ngày đầu mới thành lập, nhiệm vụ công tác dân vận của đơn vị gặp rất nhiều khó khăn, nhất là quá trình vận động đồng bào phá bỏ cây thuốc phiện và tiến hành cai nghiện tụ hội.

Thành thử, các anh phải đi bộ mấy ngày đường mới tới được những bản bóng gió nhất. Đặc biệt với Mùa A Hàng, vừa tuyên truyền vận động, anh vừa chủ động sưu tầm tư liệu cùng những câu chuyện giản dị, dễ hiểu về cuộc thế, tấm gương đạo đức của Bác Hồ dịch sang tiếng Mông rồi kể cho đồng bào nghe. Những câu chuyện về Bác cùng giọng kể trầm ấm của Mùa A Hàng làm cho bà con ai cũng thú nhận, lắng tai; ai cũng náo nức và hàm ơn Bác Hồ.

Trước tình hình đó, quân nhân Trạm 2 mô tả rõ quyết tâm kiên trì cắm bản, thực hiện "ba cùng" với đồng bào. Vất vả là thế, khó khăn là thế, nhưng vào thời gian đầu, khi bộ đội và cán bộ địa phương có mặt, phần đông dân bản, nhất là đàn ông đều chẳng ai "quan tâm" đến những lời tâm huyết, thậm chí cứ liên tiếp sử dụng chiêu bài… “chi pâu” (tiếng Mông nghĩa là “không biết”).

Bà con rất sợ quân nhân đến phá cây thuốc phiện thì sẽ không còn biết lấy thứ gì để hút… Từ tâm lý đó, cùng với những luận điệu xuyên tạc, tuyên truyền, kích động, bóp méo sự thật của kẻ xấu về hình ảnh bộ đội Cụ Hồ nên đồng bào càng một mực không chịu làm theo những chỉ dẫn của quân nhân”.

Đặc biệt, một số dân tộc như Mông, Sinh Mun, Khơ Mú, tỷ lệ người mù chữ, tái mù chữ, không nói được tiếng phổ biến khá cao, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước tới dân chúng.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất tại các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn đủ thứ, đường sá đi lại khó khăn. Thành ra, bà con không dễ để trường đoản cú thói quen “truyền thống” này. Khoảng hơn 10 năm về trước, đời sống của đồng bào các dân tộc huyện Sông Mã còn gặp muôn ngàn khó khăn.

Nhưng điều khó khăn nhất trong quá trình làm thuê tác dân vận là nơi ngụ của dân tộc Mông, Khơ Mú, Sinh Mun thường tập kết ở những khu vực heo hút hoặc biệt lập trên các ngọn núi cao, xa quốc lộ. Trước khi về xuôi, những câu chuyện, những việc làm của cán bộ, chiến sĩ đơn vị đích thực để lại trong tôi nhiều ấn tượng.

Lính Trạm 2 chỉ dẫn bà con cách chăm chút vật nuôi. Công việc của cán bộ, đội viên nơi đây đâu chỉ là những "đôi mắt thần" canh gác cho giang sơn, mà họ còn thực sự trở nên những người con của các gia đình đồng bào Mông, Sinh Mun, Khơ Mú nơi vùng biên giới xa xôi này. Tuy nhiên, bằng quyết tâm, bổn phận, không cam tâm nhìn cảnh đồng bào ăn đói, mặc rét, suy vong nòi giống vì thứ ma túy chết người này, cán bộ, đội viên Trạm 2 đã phối hợp chém với cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc biệt là tranh thủ sự ủng hộ của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trên địa bàn, bền chí lặn lội tới từng thôn, bản xa nhất, heo hút nhất để vận động đồng bào trường đoản cú cây thuốc phiện; song song giúp bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế.

Thượng úy QNCN Mùa A Hàng, người dân tộc Mông là một trong bốn viên chức có thâm niên cao nhất đơn vị về những tháng ngày lội suối, luồn rừng đến với đồng bào. Trong nhiều ngày, nhiều tuần, họ nhất định thực hiện 3 không: Không nghe, không nói, không làm theo quân nhân.

Khi đã "ấm cái bụng", bà con lại cùng với bộ đội làm đường bê tông, làm cầu vượt suối. Bên cạnh đó, các anh còn tích cực viện trợ quần chúng sửa nhà, làm nương, chỉ dẫn bà con trồng và coi sóc cây ngô lai 10, gian rét cho trâu bò, di chuyển nhà vệ sinh, hệ thống chuồng trại chăn nuôi ra xa khu vực nhà ở.

Rồi những nương cỏ được bà con hằng ngày "lắp ghép" hoàn chỉnh phục vụ việc chăn nuôi, phát triển đàn bò sữa.

Nói vui như Thượng úy QNCN Trịnh vẻ vang: “Để đến được những bản như: Kéo Càn, Pá Ló, Co Đứa của xã Mường Sai hay Non Kham, Huổi Nhương, bản Búa, bản Híp của xã Chiềng Khương vào những ngày mưa, nếu đi xe máy thì chỉ có thể “duy trì” số 1, số 2… hàng chục cây số”.

Đây còn là điểm nóng về trồng cây thuốc phiện. Đại úy QNCN Hà Văn Ngoan, tâm tình: “Tất cả chỉ tại cây thuốc phiện đã làm bà con dân bản u mê.

Những người "lĩnh ấn tiên phong" là Thượng úy QNCN Mùa A Hàng, Đại úy QNCN Hà Văn Ngoan, Đại úy QNCN Vương Đại Phúc, Thượng úy QNCN Trịnh Đức Thủy… Công việc của các anh là cùng với cán bộ thôn gặp từng gia đình đồng bào, nhất là những nhà có cảnh ngộ đặc biệt khó khăn, có người mắc phải nghiện hút để tuyên truyền về tác hại của cây thuốc phiện, lấy những ví dụ cụ thể cho đồng bào dễ hiểu.

Cuộc sống của bà con các dân tộc huyện Sông Mã đang "thay da đổi thịt" từng ngày. Ban đầu là một nhà, hai nhà, rốt cục là cả bản cùng cam kết không trồng cây thuốc phiện mà thay vào đó là những khoảnh vườn, vạt nương ngô, sắn hay nhãn.

Anh cũng có thể coi là “nhân chứng sống” của cái thuở quanh năm quần xắn đến gối đi nương, làm rẫy với bà con các dân tộc nơi đây.