Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Kỳ lạ Luận bàn về sự công bằng.

6 Nguyên tắc này đóng vai trò như là nền tảng của quốc gia pháp quyền hiện đại và là một nguyên tắc quan trọng của nhiều bản Hiến pháp dân chủ. Đồng đẳng trước pháp luật là điều kiện cơ bản để đạt đến sự công bằng 6. ): Enzyklopädie Philosophie und Wissenschaftstheorie. Org/external/default/main?pagePK=64165259&theSitePK=478060&piPK=64165421&menuPK=64166093&entityID=000112742_20050920110826). 3 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. Tỉ dụ, những bác sĩ có cùng trình độ, cùng năm cống hiến phải được hưởng lương như nhau, nhưng không thể đòi hỏi lương một người bác sĩ lâu năm đã bỏ bao công cần lao, học hỏi, phải ngang bằng với lương một người y tá mới ra trường.

Hoạt động hành pháp và tư pháp cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật và đảm bảo sự vô tư (fairness), đồng thời ăn nhập với thuộc tính, chừng độ của từng quan hệ pháp lý cụ thể. Việc thực thi hiệu quả các vấn đề như công bằng trong việc tiếp cận các nhịp, công bằng trong việc đảm đang bổn phận chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các đời sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển bền vững về nhiều bình diện ở khuôn khổ toàn cầu.

Chẳng hạn chính sách cộng thêm điểm thi đại học theo vùng hiện, chính sách hỗ trợ cho những người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương ở Việt Nam hiện giờ ngoài ý nghĩa là những chính sách xã hội, đó còn là miêu tả của sự công bằng (công bằng theo chiều dọc). Đồng đẳng và công bằng dưới góc độ pháp lý    Dưới góc độ pháp lý, đồng đẳng và công bằng là hai khái niệm khác nhau.

Band 1. Muốn vậy, phải có cơ chế giải trình, kiểm tra, giám sát và bảo đảm minh bạch thông tin. Tóm lại, công bằng có thể hiểu một cách đại quát nhất là trạng thái lý tưởng của tầng lớp loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi. Việc thực thi hiệu quả các vấn đềnhư công bằng trong việc tiếp cận các nhịp, công bằng trong việc đảm trách trách nhiệm chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các đời sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển vững bền về nhiều bình diện ở khuôn khổ toàn cầu.

Đó là công bằng. Worldbank. 347. Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đúng đắn, những qui tắc, chuẩn chung hoặc cách thức hành động hợp, được cộng đồng dấn 2. ” Công bằng hiện tại không chỉ là thiên hướng chung trong thế giới hiện đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá chừng độ phát triển vững bền của một từng lớp.

Chả hạn: Cái thiện luôn thắng cái ác, Cô Tấm hiền thảo, chịu thương chịu khó hay Thạch Sanh nghĩa hiệp rút cuộc được hưởng vinh hoa phú quí, còn mẹ con Cám độc ác hay Lý dâm tà ác, xảo trá chung cuộc phải bị trừng phạt.

Trong tầng lớp hiện đại ngày nay, để bảo đảm cho sự công bằng, cơ quan lập pháp có vai trò rất quan yếu. Công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc    Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng từng lớp đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal justice) tức là đối như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng tầng lớp theo chiều dọc (vertical justice) theo tức là đối xử khác nhau với những người có những dị biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dặn dò: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. , Nhịp giữa các thành viên trong tầng lớp được phân chia một cách ăn nhập, không thiên tính 4. Mỗi người sẽ có những đánh giá riêng của mình thế nè công bằng hay không công bằng. Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, công bằng dần được nom trong một khuôn khổ rộng lớn hơn, không chỉ được hiểu là công bằng trong khuôn khổ quốc gia, mà hơn thế, công bằng còn được hiểu ở khuôn khổ quốc tế.

, 2011, Rn. Đó là sự công bằng; Hay qui định người nào làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người nào làm ít sẽ được hưởng ít, người có công được thưởng, người có tội phải bị trừng trị; người có công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, người có tội càng nặng, mức phạt sẽ càng nặng.

Những đạo luật vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị tuyên bố vô hiệu. Chả hạn, trong một tầng lớp đa dạng, đa chiều, sự cạnh tranh giữa các ý tưởng sẽ tạo điều kiện cho các sáng kiến của cá nhân chủ nghĩa phát triển.

Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá nhân chủ nghĩa 3. Mặc dù có nhiều cách quan niệm cũng như lý thuyết về sự công bằng, tuy nhiên những lý thuyết này vẫn chưa đủ để tạo ra một cách hiểu hợp nhất về sự công bằng, bởi lẽ mỗi một nền văn hóa, ngồi không gian và thời kì khác nhau, lại xuất hiện những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau về sự công bằng.

Metzler, Stuttgart 1995, S. 349. Người dân phải được quyền biết và đóng góp quan điểm vào việc hình thành, cũng như giám sátviệc thực thi luật pháp. Của mọi thành phần từng lớp (welfare maximization). Không ở đâu pháp luật qui định “mọi người đều bình đẳng”,vì điều đó không thể có, nhưng gần như pháp luật của quốc gia nào cũng qui định “mọi người đều bình đẳng trước luật pháp”.

2 Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. 348. Công bằng theo nghĩa khách quan và công bằng theo nghĩa chủ quan    Công bằng cũng có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau là nghĩa khách quan (objective justice) hoặc nghĩa chủ quan (subjective justice) 1.

Chính sự cạnh tranh giữa các ý tưởng là bước khởi đầu, là cơ sở quan trọng để góp phần tạo nên sự công bằng từng lớp. Chả hạn trong việc xây dựng chính sách thuế: Những người có khả năng ngang nhau cần phải đóng một khoản thuế ngang nhau (công bằng theo chiều ngang), và những người có khả năng hay thu nhập không ngang nhau cần phải áp dụng những khoản thuế khác nhau (công bằng theo chiều dọc).

Lập pháp có nhiệm vụ phải tối ưu hóa mọi lợi. -------------- 1 Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit juristischer Methodenlehre, 6.

Đồng đẳng về cơ hội và khuyến khích sự cạnh tranh giữa các ý tưởng    từng lớp nào cũng luôn tồn tại những nhóm người yếu thế, nhóm người dễ bị tổn thương. 4 Xem: Oswald Schwemmer, Gerechtigkeit, in: Jürgen Mittelstraß (Hrsg. 746 5 Theo mỏng của nhà băng thế giới (World Development Report 2006 – Equity and Development) ở những nước nào mà các nhân tố về công bằng, đặc biệt là công bằng về mặt cơ hội (equality of opportunity) được quan hoài, bảo vệ thì ở những nước đó có sự tăng trưởng tốt về kinh tế.

Aufl. Điều này cũng đề đạt một qui luật thế tất: sự hợp nhất và tranh đấu của các mặt đối chọi là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Đồng đẳng chỉ là nguyên tố cơ bản hợp thành sự công bằng. Trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) có ghi nhận là: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và đồng đẳng về phẩm giá và quyền lợi.

Những quyết định hành chính hay phán quyết của Tòa án vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị hủy bỏ.

Công bằng còn được hiểu là sự quãng một môi trường mà trong đó các cơ hội là ngang bằng nhau. ” Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cũng qui định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị bình đẳng, công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự dị biệt về cỗi nguồn xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, thiên hướng dục tình, tiếng nói, tôn giáo, thế giới quan chính trị, cỗi nguồn xuất thân, tài sản hay các điều kiện khác.

(Xem bẩm của Ngân hàng thế giới (World Bank) về sự công bằng và phát triển (Equity and Development) năm 2006 tại địa chỉ: http://econ.

Nguyên tắc đồng đẳng trước luật pháp bị vi phạm khi công quyền bính xử tùy tiện, đối xử bất công hơn đối vơímột nhóm người này so với một nhóm người khác, không dựa trên cứ pháp lý nào cả, dù rằng giữa hai nhóm này không có bất cứ một sự khác biệt nào về mặt địa vị pháp lý.

Những đối tượng này cần phải được tiếp cận với các dịch vụ chăm nom sức khỏe, giáo dục, công ăn việc làm, nguồn vốn, mạng lưới an sinh nhằm góp phần kiến tạo sự công bằng về điều kiện sống và công bằng về dịp phát triển trong xã hội 5.