Sinh sản đi liền nghiên cứu Theo cam kết của Viedam với SHTP, khi hoàn thành phần căn bản và chính thức đi vào hoạt động (10-2014), trọng tâm có tổng số vốn đầu tư hơn 7,5 triệu USD này sẽ là nơi nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật chế tạo khuôn mẫu có độ chuẩn xác cao, thử nghiệm nguyên liệu mới, đào tạo hàng ngũ kỹ sư Việt Nam… Trong đó, khoảng thời gian đầu, từ 3 - 5 năm, Viedam sẽ dành 90% sản phẩm để xuất khẩu, 10% dành cho nội địa. Sau đó, tỷ lệ nội địa hóa sẽ tăng dần lên đến 30% khi công ty đi vào hoạt động ổn định. Và quan trọng hơn, 5% lợi nhuận thu được sẽ dành hẳn cho công tác R&D tại trọng điểm. Theo giám đốc điều hành Võ Công Hai, Viedam và các sản phẩm khuôn mẫu của công ty không còn quá xa lạ với các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Bởi Viedam hiện nằm trong tốp 5 doanh nghiệp cung cấp khuôn mẫu hàng đầu. Tại thị trường Việt Nam, Viedam đã thành lập nhà máy sản xuất trước hết vào năm 2003 và không ngừng lớn mạnh với các nhà máy lần lượt ra đời tại Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu… Tuy nhiên, việc ra đời trọng tâm R&D ngay tại SHTP lại là đích quan yếu trong tiến trình phát triển của công ty. Bởi khi trọng tâm ra đời, Viedam Việt Nam mới đích thực “chạm tay vào công nghệ cao”. Viedam là một dẫn chứng mới nhất, hiện TPHCM chứng kiến không ít doanh nghiệp FDI và thậm chí doanh nghiệp trong nước triển khai nghiên cứu và phát triển song song với sinh sản. Ông Lê Hoài Quốc, Trưởng ban Quản lý SHTP, cho biết: sản xuất đi đôi với nghiên cứu bộc lộ rất rõ khi khu công nghệ cao đã quy hoạch khu 93ha chuyên về nghiên cứu, đào tạo, ươm tạo công nghệ cao, gọi tắt là khu không gian khoa học. Có thể nói, việc chọn lọc nhà đầu tư vào Khu không gian khoa học được tiến hành rất kỹ lưỡng từ khâu đánh giá, gạn lọc công nghệ cho đến tính khả thi trong hoạt động thương mại hóa.Với sự khẳng định như vậy, từ năm 2013, đã có dấu hiệu chuyển biến về cuộn đầu tư vào khu không gian khoa học. Một số tập đoàn công nghệ cao vững mạnh trên thế giới, các công ty khoa học công nghệ trong và ngoài nước, viện nghiên cứu của các trường đại học đang xúc tiến thủ tục đầu tư vào khu. Một số nhà đầu tư đã khởi công xây dựng cơ sở nghiên cứu công nghệ cao như Viện Nghiên cứu năng lượng mới Tập đoàn Dầu khí, Đại học Hutech, trọng điểm sắc ký Hải Đăng…”. Cuốn có chọn lọc Theo ông Lê Hoài Quốc, các đơn vị đầu tư vào khu không gian khoa học đều có nghiên cứu về kế hoạch kinh dinh, cho thấy họ sẽ đạt các giá trị đầu tư xứng đáng khi chọn dạng đầu tư tiên tiến này. Một số công ty ở khu sản xuất đã có đầu tư khá cao cho hoạt động R&D như FPT, Nanogen đều có doanh thu lớn và giá trị gia tăng cao, do đó họ quyết định đầu tư tiếp cơ sở R&D trong khu không gian khoa học… Thực ra, không riêng gì TPHCM, mà các khu công nghệ cao hoặc khu công nghiệp tụ họp lớn trên cả nước đã đón nhận xu hướng đầu tư mới của các doanh nghiệp nước ngoài từ năm 2012. Theo thống kê của Bộ KH-ĐT, năm 2012, mặc dù vốn FDI vào Việt Nam đấu suy giảm (vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt trên 13 tỷ USD, bằng 84,7%, còn vốn giải ngân đạt 10,46 tỷ USD, bằng 95,1% năm 2011), nhưng bù lại, có một luồng vốn khá lớn đổ vào lĩnh vực công nghệ cao. Trong đó, hoạt động R&D như là một lời cam kết đồng thời. Điển hình nhất cho thiên hướng này chính là Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) đã quyết định đầu tư thêm 830 triệu USD để xây dựng một nhà máy sinh sản điện thoại di động và các sản phẩm điện tử thứ hai ở tỉnh Bắc Ninh. Sau khi hai nhà máy này được sáp nhập thành một Tổ hợp Công nghệ Samsung, với tổng vốn đầu tư lên tới 1,5 tỷ USD, thì một trọng tâm R&D cũng sẽ được xây dựng ở Hà Nội… Trở lại với thực tiễn tại TPHCM và cụ thể là SHTP, bà Lê Bích Loan, Phó ban Quản lý SHTP, cho rằng thu hút đầu tư đồng thời các dự án R&D là điều đáng mừng, nhưng cũng cần lưu ý với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cùng công nghệ vào Việt Nam. Thực tế trên thị trường đang tồn tại hai hình thái, một là doanh nghiệp mang công nghệ tiên tiến đến Việt Nam và khát vọng cho R&D, một còn lại dựa vào nguồn cần lao rẻ trong nước. Thành ra, việc chọn lựa nhà đầu tư cần sáng láng và minh bạch. TƯỜNG HÂN - BÁ TÂN |