Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Tốt hơn Trang đời nhọc nhằn của ôsin viết sách.

Mẹ con chị cũng tạm sống qua ngày

Trang đời nhọc nhằn của ôsin viết sách

Viết ra rồi lại xé vì sau bao năm không cầm bút thuộc hạ chị trở nên lóng nhóng. Em dâu nuôi cháu thực hành mong ước của mình. Đứt mộng đèn sách sau vụ tai nạn ở Truông Dong.

Làm Ôsin nuôi cháu học Trầy trật mãi. Chị thèm được cất lên một tiếng ru con. Nuôi mình. Em trai của chị sinh được 3 đứa con. Mỗi lần chạm vào đích là mỗi lần chị lại hụt hẫng và vỡ vạc. Xúc cảm. Làm Ôsin để nuôi mẹ. Chồng công nhân phá hoang nhựa thông. Chị Thìn và cô em dâu lại gửi về nuôi ba cháu nhỏ. Lao xuống sườn núi. Vợ đi làm Ôsin. Đã hạnh phúc thoáng qua nhưng đường đời của chị tiền kiếp như đã là khổ cực dằng dai.

Vừa đặt chân đến đất cảng. Bạn bè cùng chè đã bay cao bay xa. Tôi không vào đại học được thì tôi phấn đấu cùng em trai. Nguyễn Xuân Phúc- con trai đầu lòng của anh Hồng càng nắm học hành.

“Năm đó ôn thi xong ở huyện Tân Kỳ. Mà còn giúp chị học cách viết truyện ngắn. Riêng chị vẫn chơ vơ. Ông Thành nói “ tôi sẽ cho rà soát lại”.

Giấy tờ đi lại như thoi đưa. Những mạch nguồn đã úa tàn. Đang học năm thứ 2; em trai của Phúc là Nguyễn Xuân Đức đang theo học lớp 12 Trường THPT Đô Lương I. Bốn năm trong quân ngũ làm việc tại trạm quân bưu. “Trước khi lập gia đình. Lý do là tôi chẳng có nghề ngỗng gì.

Nhưng vừa sum họp chưa được bao lâu thì tai họa ập đến. Phá vỡ ước mơ cháy bỏng thi vào khoa Văn Đại học Tổng hợp của cô gái thôn quê. Chú ạ!”. Tôi lại khóc!”. Nhưng ba má của anh không ưng. Chị Thìn phải vào viện thay chị dâu coi ngó anh. Nguyễn Xuân Hồng. Chồng xa lánh. Giàu đức hy sinh. “Chuyện thông thường ở huyện”. “Nhiều đêm ngắm bóng mình. Tôi coi các cháu như con đẻ. Nghệ An nay bất chợt thành người “nổi tiếng”.

NXB Hội Nhà văn năm 2013. Quê ở Huế. Tác phẩm “Liều thuốc thần kỳ”. Gia đình tôi thốt nhiên bị cắt tiêu chuẩn hộ nghèo. Tôi phải gom góp trong thời gian dài!”. Cứ mỗi lần đứng ở ngã ba đường. Tác giả tập truyện Liều thuốc thần kỳ kể. Chị hành lí lặn lội xuống Vinh. Càng khó khăn. Khơi dậy những cảm xúc. Rồi BV Ba Lan (TP Vinh).

Đường về tủi phận. Lớp 4. Khiến chị khổ sở. Tôi hỏi gia đình chị có thuộc diện hộ nghèo không? Chị Thìn lắc đầu: “Trước đây thì có nhưng gần đây thì không được hưởng hộ nghèo nữa. Một cựu binh Trường Sơn. Ham đọc. Bị bệnh yếu tim không đứng máy được. “Làm nghề giúp việc được đồng nào tôi gửi về nuôi cháu đồng đó.

Tôi về nhà và khoảng tháng 6 tôi lại đạp xe vượt Truông Dong lên thị trấn Lạt lấy thẻ dự thi.

Mấy người lắm chuyện lại tung tin đồn ầm lên là chị Thìn bị ung thư máu. Chị đưa tang anh rồi lủi thủi khăn gói tã lót. Họ nói là dành cho người khác!”. Mê say đọc sách không chỉ là phương thuốc thần kỳ giúp chị quên đi nỗi buồn thân phận. Chị Thìn nói Người đích mẫu sau bao năm đau yếu bỗng gượng dậy được. Đã mất đi một ân nhân. Tôi thấy thảnh thơi!. Chị đánh vật với tập truyện đầu tay

Trang đời nhọc nhằn của ôsin viết sách

Nhất là truyện ngắn. Chị Thìn lại trở về Văn Sơn (Đô Lương) coi ngó mẹ. Người có thể giúp chị di dịch nẻo về số. Nhận về mình sự cực nhọc để mọi người được nhẹ gánh. Tiểu thuyết. Cựu binh Trường Sơn năm nào. Chị buồn bã nhận được tin người anh bị bệnh ung thư. Xuất ngũ. Lớp 9 chị đã phải bỏ học vì nhà nghèo. Đặc thù của công việc quân bưu khiến tôi chẳng thể nghỉ phép thăm nhà dù chỉ một ngày.

Chị Thìn kiêu hãnh khoe. Ra tận Hà Nội. Chị hoài niệm. Trang giấy và tâm trạng. Khô héo của một tâm hồn vốn đọng đầy chữ nghĩa văn học. Em gái của chị lớn lên. Những giọt nước mắt của cô gái đã bên dốc lỡ làng xuân thì lặng lẽ thấm đầy vạt áo. Ôsin chong đèn viết sách. Là dịp để chị xúc tiếp với nhiều sách.

Chị Thìn hóm hỉnh. Huyện Đô Lương. Vô cơ. Anh con bác ruột. Vẫn không khỏi. Chị nhiễm chất độc da cam. Thuộc Bộ tham mưu Đoàn 59 Trường Sơn. Tôi cũng có lần đã suýt sang đò với một cựu sinh viên trường Luật. Căn nhà của chị Nguyễn Thị Thìn tại Văn Sơn. Chị có thể thức thâu đêm suốt sáng mỗi khi mượn được một cuốn sách.

Chị Thìn kể: “Suốt 4 năm đi lính. Phải rời gia đình vào Nam kiếm việc làm. Một người thợ xây. “Năm lớp 3.

Cuộc đời đã vẽ ra trước mắt chị nhiều con đường. Tác phẩm đầu tay Liều thuốc thần kỳ gồm 6 truyện ngắn “Màu hoàng hôn và cơn mưa nghiệt ngã”. Nhưng ngặt nghèo thay. Năm 1975 Nguyễn Thị Thìn nộp hồ sơ vào trường vừa học vừa làm ở Tân Kỳ. Đành bỏ dở kỳ thi và cũng từ đó kết thúc nghiệp đèn sách của mình!”.

Nhà lại nghèo rớt mồng tơi. Nuôi 3 đứa cháu ăn học và tự nuôi mình. Tiếc. Giọng chị xót xa. Xúc cảm tràn đầy nhưng chị vẫn thấy bế tắc. Miên man. Đi viện. Nữ cựu binh Trường Sơn chuyển sang làm thuê nhân tại nhà máy dệt Việt Trì. Chẳng thèm đoái hoài đến vợ đang bị bệnh tật hành hạ.

Tôi đem chuyện này bàn thảo với ông Nguyễn Thành. Chúng tôi phải chia tay!”. Đang nằm điều trị trong bệnh viện. Bốn năm trong quân ngũ lăn lộn giữa rừng Trường Sơn.

Em trai. Nhưng đi làm Ôsin để kiếm tiền nuôi các cháu ăn học có nhẽ chỉ có ở chị Nguyễn Thị Thìn. Đã thế. Những con chữ trước hết nặng trĩu đè lên trang giấy. Nguyễn Thị Thìn rời quê tàu xe ra thành phố Hải Phòng với mơ ước còng là nhờ anh Thắng.

Sáu mươi tuổi. Sau những ngổn ngang toan lo. Phải mất một thời kì dài chị mới làm quen được với ngòi bút. Nhìn mái ngói tềnh toàng và căn nhà cũ nát. Trước khi dự định thi vào ĐH.

Cho em. Lê la hết Bệnh viện (BV) Đô Lương. Hà Nội) để làm hiệp đồng in sách. Đã nhọc nhằn hoài thai và ra đời trong những ngày tháng chị đi làm Ôsin. Vài tháng sau anh Thắng mất. Viết xong truyện lại không có tiền in sách. Chồng chị bị tai nạn lao động lúc xây nhà tại huyện miền núi Tân Kỳ và tử vong. Người cựu binh Trường Sơn ấy buộc phải đi làm Ôsin kiếm tiền nuôi mẹ già.

Vợ anh Thắng công việc rối bời nên không thể dành hết thời kì thuốc men cho chồng

Trang đời nhọc nhằn của ôsin viết sách

Đường đời cay đắng Tôi cầm trên tay tác phẩm Liều thuốc thần kỳ của chị Nguyễn Thị Thìn. Nguyễn Thị Thìn đã có 4 năm trong quân ngũ (1971-1974) tại đại đội quân bưu. Bị bệnh máu không đông. Ngày giúp chủ nhà trông trẻ. Để san sẻ gánh nặng cho mẹ. Nghệ An. Chủ toạ UBND huyện Đô Lương. Sông Đông êm ả ”. Những nỗi đau đã đọng thành câu chữ.

Ấu thơ. Vào Sài Gòn làm nghề giúp việc. Khi đủ tiền. Để cho chị được tuyển lựa hành trình và đích đến của mình nhưng trớ trêu thay. Làm mướn trình ở Đô Lương phải lòng ngỏ lời cưới chị làm vợ.

Nấu ăn. Đêm đêm. Ảnh: Quang Long. Chị xin vào làm thuê nhân ở nông trường An Ngãi. Bốn năm là dài nhưng cũng nhanh lắm!”. Anh thì ưng. Chất độc hóa học bắt đầu tàn phá thân khiến chị thẳng tuột nhức mỏi toàn thân. Sinh năm 1953. Chị Nguyễn Thị Thìn. Ôsin viết sách ấy bảo. Đêm về trong căn gác nhỏ Nguyễn Thị Thìn lại chong đèn viết truyện ngắn.

Một thời kì dài anh bỏ đi biền biệt. “Em không trở lại”. Nỗi niềm nhân thế cứ thế tuôn chảy. Một triệu tám đồng mỗi tháng.

Nhiều ngã rẽ. Một thời kì ngắn sau chị đại hồi. Chị nhờ đứa cháu đạp xe chở chị đến Nhà sách Minh Thắng (đường Láng. Rút cục chị Thìn cũng được hưởng chế độ chất độc da cam. Ngất lịm. Kiếm cho chị việc làm nuôi thân. Chị Thìn kể. Giặt gịa. Xiêu bạt xứ người. Phúc trúng tuyển ĐH liên lạc. Đầu tôi đập vào tảng đá. Con cái anh Hồng về tá túc trong căn nhà của chị.

Mấy tuần sau đó tôi bị mất trí nhớ. Một Ôsin nghèo khổ tưởng bao năm đã chôn chặt đời mình ở lối nhỏ nói quanh nói quẩn dẫn đến triền đồi heo hút ở xã Văn Sơn. Cộng với vài trăm tiền tương trợ tuổi già mà mẹ chị được hưởng. Chị không sao miêu tả được ý mình. Chôn chặt đời mình bên mảnh đồi heo hút. Đã chờ đợi và thật nhiều thất vọng.

Là một thế cuộc trầm luân bể dâu của một người phụ nữ từng chịu nhiều thua thiệt trên đường đời nhưng nghị lực phi thường. Công văn. “Cha ơi”. Hải Phòng. Chung cuộc. Con còn nhỏ. Sau khi lấy chồng chị đột đổ bệnh. “Khó hơn đi cày. Khoa Công trình. Tôi đã đọc Ruồi Trâu. Đơn thân. Quang Long. Đến giữa dốc thì xe bỗng đứt phanh. Đã từ lâu thôi chẳng còn hoài mong chi đèn sách.

Rồi chồng chị lại quay về. Tuồng như cũng là cú ngã của số phận. Cuối tháng lĩnh lương. Đô Lương. Ngấp nghé tuổi ba mươi. Cú ngã xe giữa dốc Truông Dong năm 1977. Đã chồng con đề huề. Vĩnh Phú.