Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

Sự tích liên tục hợp của sách giáo khoa.

Để điều đó trở thành hiện thực thì không chỉ tạo dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải đổi thay tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cải cách giáo dục đến với học trò). Chủ chốt của giáo dục là dạy người và dạy làm người. Chúng ta đang giáo dục con người theo cách bị động. Những cuốn sách giáo khoa đầu tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khêu gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống từng lớp.

Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến vô tận của kiến thức, không thể tiếp tục chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy tri thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập nghĩ suy và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng trách nhiệm với giang sơn, với dân tộc.

Tại sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham gia của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã chính trực nêu lên 6 vấn đề của SGK hiện thời.

Nếu không có những người thầy nhiệt huyết, trí tuệ sẽ không có những tư cách, những hào kiệt cho tổ quốc. Kinh nghiệm từ những lần canh tân giáo dục trong lịch sử cũng như những lần đổi thay SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi".

Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc cải cách sư phạm. Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều đời trong một gia đình gìn giữ, chuyền tay nhau học tập. Tiếp đó, sau 4 năm giải phóng miền Nam thống nhất giang san, năm 1979, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ quát 12 năm.

Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều tri thức, kể cả thiếu một số môn chủ chốt về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo. Theo Phó chủ toạ Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của giáo viên và cộng đồng".

Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân chiến thắng tiến về Thủ đô", để hợp nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cách tân giáo dục mới được tiến hành. Thế nhưng thay đổi ra sao, trên nền móng nào, thực hiện vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề.

Tuy nhiên, sau một thời gian "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học trò, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho từng lớp. Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. "Muốn thắng trong kinh tế, trước tiên phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ đích giáo dục.

Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên cách tân lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh khôn cùng khó khăn, nhưng nền móng tri thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều nhân tài phục vụ sự nghiệp phát triển sơn hà.

Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - từng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai. Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp kiến thức, được soạn với mục đích dạy và học. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ biến.

Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên tri thức bị phân khúc, tách rời, gián đoạn. Không ít kinh nghiệm biên soạn SGK của nước ngoài đã được thu nhận và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã tham gia biên soạn và giám định bộ SGK này.

Đặc biệt, phải xác định rõ mục tiêu giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn cuối cùng trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp phải hy vọng! nền móng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu giải đáp xác thực.

Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là nguyên tố để chấn hưng văn hóa, giữ gìn và phát huy các giá trị Việt Nam. Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần cải cách giáo dục phổ quát là một lần… đổi thay sách giáo khoa.

Lần canh tân SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hành một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, soạn tài liệu dạy thí nghiệm rồi mới làm SGK chính thức.

Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về kiến thức nhưng ngày một xa vắng thực tế và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học trò; nội dung đổi thay và cách tân quá nhiều trong thời gian ngắn; khâu tổ chức biên soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khuyết thiếu hoặc quá thừa không chỉ làm phung phá tiền nong, thời gian mà còn đặt lên vai học trò, kiền những áp lực không đáng có.

Trong một cuộc đáp phỏng vấn báo chí, GS. Ba cuộc cải cách giáo dục phổ biến đã làm tròn sứ mệnh trong những tuổi lịch sử nhất định. Trong kháng chiến chống Pháp, với đích xây dựng một nền giáo dục thích hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc canh tân giáo dục trước hết. Nếu chỉ quan hoài đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục tư cách, lối sống với giáo dục tri thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hiện.

Thứ sáu, việc lựa chọn khối lượng và tính chất các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tiễn… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng nhận: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học trò mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là hết sức cấp thiết.

Với một chương trình giáo dục không còn thích hợp với xã hội đương đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì dĩ nhiên phải đổi thay.

Thứ năm, thiếu tính liên thông về kiến thức. Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lộ trình cụ thể thì công cuộc cải cách giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các đời người Việt trong tương lai. Thứ hai, SGK hiện định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc tri thức (ví dụ, ngoại ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống ngày nay nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).

Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận bây giờ.

Thứ ba, những kiến thức sử dụng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, bởi thế bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối. Thứ tư, SGK bây giờ thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình. Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những tri thức cơ bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân công của sơn hà chứ không phải là sự chắp vá, vay mượn hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.

Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ biến 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến. TS Trần con tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chăm chăm nghĩ đến chuyện viết lại SGK.

Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan yếu trong tiến trình nhận thức của học sinh, chứa đựng hàm lượng cơ bản nhất về kiến thức và là nền móng của tư duy sau này của đời người.